Nhật Bản sau Thế chiến thứ nhất: Nền Dân chủ Đại Chính Thời_kỳ_Đại_Chính

Thời kỳ hậu chiến mang lại cho Nhật Bản sự thịnh vượng chưa từng thấy. Nhật Bản đã tham dự Hội nghị hòa bình Paris, 1919 với tư cách là một trong những cường quốc quân sự và công nghiệp lớn của thế giới và được công nhận là một trong những quốc gia "Ngũ đại" của trật tự quốc tế mới .[4] Tokyo đã được trao một ghế thường trực trong Hội đồng Hội Quốc Liên và hiệp ước hòa bình đã xác nhận việc chuyển giao các quyền lợi tại Sơn Đông của Đức cho Nhật, một điều khoản được cho rằng dẫn đến các cuộc bạo loạn chống Nhật và một phong trào chính trị quần chúng trên khắp Trung Quốc. Tương tự, các đảo Bắc Thái Bình Dương cũ của Đức được đặt dưới sự ủy nhiệm của Nhật Bản. Nhật Bản cũng tham gia vào cuộc can thiệp của Đồng minh sau chiến tranh ở Nga và là cường quốc cuối cùng của Đồng minh rút (năm 1925). Mặc dù chỉ có vai trò nhỏ trong Thế chiến I và các cường quốc phương Tây bác bỏ đàm phán một điều khoản bình đẳng chủng tộc trong hiệp ước hòa bình, Nhật Bản nổi lên như một nhân vật chính trên vũ đài chính trị quốc tế khi cuộc chiến kết thúc.

Hệ thống chính trị hai đảng đã phát triển ở Nhật Bản kể từ đầu thế kỷ đã có từ sau Thế chiến I, đã tạo ra biệt danh cho thời kỳ này, "Dân chủ Đại Chính". Năm 1918, Hara Takashi, một người được Saionji chống lưng và có ảnh hưởng lớn trong nội các Seiyūkai trước chiến tranh, đã trở thành thường dân đầu tiên làm thủ tướng. Ộng ta đã tận dụng các mối quan hệ lâu dài mà anh ta có trong toàn chính phủ, giành được sự ủng hộ của genrō còn sống và Thượng Viện, và đưa vào nội các của mình với tư cách là bộ trưởng quốc phòng Tanaka Giichi, người được đánh giá cao hơn do có các mối quan hệ dân sự-quân sự có lợi hơn so với người tiền nhiệm của mình. Tuy nhiên, những vấn đề lớn mà Hara phải đối mặt: lạm phát, sự cần thiết phải điều chỉnh nền kinh tế Nhật Bản với hoàn cảnh sau chiến tranh, dòng tư tưởng nước ngoài và một phong trào lao động mới nổi. Các giải pháp trước chiến tranh đã được nội các áp dụng cho các vấn đề hậu chiến này, và rất ít trong số chúng được thực thi để cải cách chính phủ. Hara đã đảm bảo đa số Seiyūkai thông qua các phương pháp được kiểm chứng theo thời gian, chẳng hạn như luật bầu cử mới và tái phân chia bầu cử, và bắt tay vào các chương trình công trình công cộng lớn do chính phủ tài trợ.[5]

Công chúng ngày càng vỡ mộng với nợ quốc gia ngày càng tăng và luật bầu cử mới, vẫn giữ nguyên các tiêu chuẩn thuế tối thiểu cũ cho cử tri. Các lời kêu gọi về quyền bầu cử phổ thông và dỡ bỏ mạng lưới đảng phái chính trị cũ. Sinh viên, giáo sư đại học và nhà báo, được hỗ trợ bởi các công đoàn lao động và được truyền cảm hứng từ một loạt các nhà tư tưởng dân chủ, xã hội chủ nghĩa, cộng sản, vô chính phủ, và các trường phái tư tưởng phương Tây lớn khác, ủng hộ quyền bầu cử phổ thông cho nam giới vào năm 1919 và 1920. Cuộc bầu cử mới vẫn mang lại một đa số Seiyūkai khác, nhưng hầu như không như vậy. Trong môi trường chính trị thời đó, đã có sự phát triển của các đảng mới, bao gồm các đảng xã hội và cộng sản.

Giữa lúc tình hình chính trị sôi nổi như thế này, Hara bị ám sát bởi một công nhân đường sắt bất mãn vào năm 1921. Hara được kế tục bởi các thủ tướng vô đảng phái và nội các chia rẽ. Nỗi lo sợ về một cuộc bầu cử rộng lớn hơn, quyền lực cánh tả và sự thay đổi xã hội ngày càng tăng sinh ra cùng với dòng văn hóa đại chúng phương Tây dẫn đến việc thông qua Luật gìn giữ hòa bình vào năm 1925, cấm mọi thay đổi trong cấu trúc chính trị hoặc bãi bỏ tài sản tư nhân.

Vào năm 1921, trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, Nhật Bản đã phát triển và ra mắt Hōshō. Đây là tàu sân bay được thiết kế có mục đích đầu tiên trên thế giới.[6][Note 1] Nhật Bản sau đó đã phát triển một đội tàu sân bay không nước nào sánh kịp.

Liên minh không ổn định và sự chia rẽ trong Quốc hội đã dẫn đến việc Kenseikai (憲政会 Hiệp hội chính phủ lập hiến) và Seiyū Hontou (政友本党 True Seiyūkai) hợp nhất thành Rikken Minseitō (立憲民政党 Đảng Dân chủ lập hiến) vào năm 1927. Nền tảng Rikken Minseitou đã được cam kết với hệ thống nghị viện, chính trị dân chủ, và hòa bình thế giới. Sau đó, cho đến năm 1932, Seiyūkai và Rikken Minseitou thay phiên nhau nắm quyền.

Bất chấp các vấn đề chính trị và hy vọng cho chính phủ có trật tự hơn, các cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước đã thách thức bất cứ đảng nào nắm quyền. Các chương trình thắt lưng buộc bụng tài chính và kêu gọi sự ủng hộ của công chúng đối với các chính sách bảo thủ của chính phủ như Luật Gìn giữ Hòa bình, bao gồm nhắc nhở về nghĩa vụ đạo đức phải hy sinh cho Thiên hoàng và nhà nước - đã được đưa ra làm giải pháp. Mặc dù suy thoái toàn cầu vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 có tác dụng tối thiểu đối với Nhật Bản, thậm chí xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn này thì bất mãn vấn gia tăng, tiêu biểu là cuộc tấn công vào thủ tướng Rikken Minseitou Osachi Hamaguchi vào năm 1930. Mặc dù Hamaguchi vẫn sống sót sau cuộc tấn công và cố gắng tiếp tục tại chức bất chấp vết thương nghiêm trọng, ông buộc phải từ chức vào năm sau và chết không lâu sau đó.